• example
  • example
  • example
  • example
  • example

Trang chủ - Nghiên Cứu - Khi nào hôn nhân thực tế được công nhận

    1. Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình

    Nghị quyết số 35/2000) là văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 mà nội dung chủ yếu là xử lý đối với hôn nhân không có đăng ký kết hôn. Các văn bản pháp luật hướng dẫn theo NQ  35/2000 là:

    - Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ (Nghị định 77/2001)

    - Nghị quyết số 02/2000 NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (NQ số 02/2000).

    - Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3-1-2001 (Thông tư liên tịch số 01/2001).

    - Công văn số 112/2001 -KHXX ngày 14/9/2001 của Toà án nhân dân tối cao (Công văn số 112/2001).

    - Kết luận số 84a/UBTVQH 11 ngày 29/4/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (kết luận số 84a).

    Từ Nghị quyết số 35/2000, có một số thuật ngữ, khái niệm cần lưu ý là:

    - "Quan hệ vợ chồng được xác lập" chỉ thời điểm bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng hay đó là ngày kết hôn thực tế.

    - "Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng" là tình trạng mà trước đây gọi là "hôn nhân thực tế".

    - "Áp dụng các quy định về ly hôn" có nghĩa công nhận quan hệ hôn nhân đó cũng là hôn nhân hợp pháp, giải quyết cho ly hôn như các trường hợp hôn nhân hợp pháp khác.

    - "Không công nhận quan hệ vợ chồng" thay thế cho thuật ngữ "tiêu hôn" trước đây. Cũng cần lưu ý cùng với loại quan hệ hôn nhân bị tuyên bố "không công nhận quan hệ vợ chồng" thì còn có loại quan hệ hôn nhân bị tuyên bố "huỷ việc kết hôn trái pháp luật" (là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định - khoản 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000).

    Cũng là quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn, NQ 35/2000 chia các quan hệ trên thành 3 loại để có quy định giải quyết khác nhau căn cứ vào thời điểm xác lập quan hệ:

    - Loại xác lập trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực:

    - Loại xác lập trong thời kì Luật Hôn nhân và Gia dình năm 1986 có hiệu lực;

    - Loại xác lập sau khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 hết hiệu lực (thay thế bằng luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).

    Đối với quan hệ vợ chồng được xác lập trước khi Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực (trước ngày 03/01/1987) được quy định ở điểu a khoản 3. Loại quan hệ này không bắt buộc phải đăng ký kết hôn mà chỉ khuyến khích đăng ký kết hôn. Nếu họ đăng kí kết hôn thì việc tham gia các giao dịch có căn cứ pháp lý và thuận lợi hơn, Nhà nước tạo điều kiện để họ đăng kí kết hôn được dễ dàng. Nhưng dù họ có đăng kí kết hôn hay không đăng kí kết hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận là hợp pháp và thời kì hôn nhân hợp pháp bắt đầu kể từ ngày xác lập.

    Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập kể từ ngày Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực (01/01/2001) trở đi được quy định ở điểm c khoản 3. Loại quan hệ này không được công nhận là vợ chồng hợp pháp; khi họ đi đăng kí kết hôn thì thời kì hôn nhân hợp pháp cũng chỉ được tính kể từ ngày đăng kí.

    Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trong thời gian có hiệu lực của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (từ 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001) được quy định trong điểm b khoản 3. Đây là trường hợp có quy dịnh cụ thể phức tạp hơn hai loại nêu trên, cần phải lưu ý khi áp dụng.

    Quy định của điểm b khoản 3 của NQ 35/2000 được hướng dẫn chi tiết tại "Thông tư liên tịch 01/2001 là:

    - Ngày họ tổ chức lễ cưới.

    - (hoặc) ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc hai bên) chấp nhận.

    - (hoặc) ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến.

    - (hoặc) ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

    Xác định thời điểm bắt đầu hôn nhân như trên là tương ứng điều kiện để "Được coi nam và nữ chung sống với nhau là vợ chồng"- (điểm d khoản 1 TTLT 01/2001). Đáng lưu ý là các tiêu chí xác định ở đây mở rộng hơn nhiều so với các hướng dẫn trước đó về "hôn nhân thực tế". Không đòi hỏi họ phải "có con chung, có tài sản chung", "sống chung công khai được họ hàng, xã hội thừa nhận" như hướng dẫn trước đây. Điều kiện cụ thể nêu tại điểm b khoản 3 NQ 35/2000 chỉ đòi hỏi thuộc một trong những trường hợp sau đây:

    - Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau:

    - Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận;

    - Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

    - Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

    Đặc trưng quy định cho trường hợp tại điểm b khoản 3 NQ 35/2000 khác với trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (trước 3/1/1987) và sau Luật Hôn nhân và gia đình 1986 (từ 01/01/2001) là quy định một thời hạn để họ đi đăng kí kết hôn. Thời hạn "đăng kí chậm" 2 năm này để giành quyền cho họ hợp pháp hoá quan hệ vợ chồng. Và như vậy, có thể có các khả năng như sau:

    -Trường  hợp 1: Họ xin ly hôn trong thời gian "đăng kí chậm". Trong thời hạn này, họ không đăng kí kết hôn mà yêu cầu xin ly hôn thì "Toà án áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết". Có nghĩa là hôn nhân đã có của họ được công nhận là hợp pháp từ thời điểm xác lập đến thời điểm cho ly hôn: các quyền và nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trong thời kì hôn nhân này giống như các quan hệ hôn nhân hợp pháp khác.

    Ví dụ 3: Ông A và và B chung sống với nhau như vợ chồng từ 01/01/1988 không có đăng kí kết hôn. Năm 1995, ông A mua được một ngôi nhà (không có công sức của bà B). Năm 1999, ông A bán nhà cho ông C (bà B không đồng ý bán nhà). Ngày 2/1/2001, ông A xin ly hôn bà B. Tòa án có cơ sở xác định cho ly hôn và xác định ngôi nhà mua năm 1995 là tài sản chung để phân chia cho ông A và bà B: hợp đồng mua bán nhà giữa ông A với ông C là vô hiệu.

    Trường hợp 2: Họ đăng kí kết hôn trong thời gian "đăng kí chậm". Quan hệ hôn nhân của họ được công nhận hợp pháp kể từ thời điểm xác lập. Trong ví dụ 3 nêu trên, nếu ông A và bà B lại đi đăng kí kết hôn vào ngày này, sau đó mới xin ly hôn và đến ngày 1/1/2001 mới được xét cho ly hôn thì thời kỳ hôn nhân hợp pháp của ông A và B là từ 1/1/1988 đến 1/1/2004 chứ không phải chỉ từ 2/1/2001 (ngày đăng kí kết hôn) đến ngày cho ly hôn. Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 là tài sản chung của vợ chồng.

    Trường hợp 3: Đến 15/1/2003, ông A và bà B mới đăng kí kết hôn. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân hợp pháp của ông A và bà B chỉ được tính kể từ thời điểm kết hôn (15/1/2003). Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 là tài sản có trước hôn nhân, nó đương nhiên là tài sản riêng của ông A. Bởi vì, qua ngày 1/1/2003 họ không đăng kí kết hôn là họ đã tự xoá khả năng công nhận thời kỳ hôn nhân hợp pháp của toàn bộ quá trình chung sống trước đó.

    -Trường hợp 4: Sau ngày 1/1/2003, ông A và bà B không đăng kí kết hôn và một trong hai người xin ly hôn thì phải xử không công nhận họ là vợ chồng. Thậm chí, họ không được Toà án xử cho ly hôn mà tự đi kết hôn với người khác thì hôn nhân mới không bị coi là vi phạm chế độ một vợ một chồng (vì sau ngày 1/1/2003 quan hệ chung sống trước đó giữa ông A và bà B đương nhiên bị coi là không hợp pháp).

    2. Pháp luật hiện tại.

    Theo Điều 14,15,16 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.

    Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

    Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

     

     


Video clip

Liên Kết Site

Hỗ trợ trực tuyến

  • Luật Sư Đặng Thế Phiệt
  • Luật Sư Đặng Văn Cường
  • Luật sư Lê Nguyễn Quốc Chương
  • Chuyên viên pháp lý Nguyễn Bảo
  • Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị
  • Luật sư Lư Quang Vinh

Liên kết chúng tôi

Thống kế

Hiện có: 3 khách đang trực tuyến